Chào mừng Quý vị đến với trang web
Việt Nam Cộng Hòa Pháp Ðịnh !
Trang Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
--------o0o--------
DÒNG SÔNG CŨ-Huynh Đệ Chi Binh
“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo viêc đao cung”.
Tình Huynh Đệ Chi Binh
Nền Tảng và Hơi Thở của các Tổ Chức Cựu Chiến Binh
“Let us remember the service of our veterans, and let us renew our national
promise to fulfill our sacred obligations to our veterans and their families
who have sacrificed so much so that we can live free” (Dan Lipinski)
Nếu gọi văn hoá là tất cả những gì thể hiện sự hiện hữu của con người
trên trái đất này thì tình huynh đệ chi binh cũng là một đặc nét của nền văn hoá Việt Nam nói chung và của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà uy dũng nói
riêng.
Diễn trình kiến tạo tình huynh đệ chi binh là diễn trình Tri và Mộ, vì “Vô tri thường hay bất mộ”. Không quen biết thì làm sao có thể trở nên thân thích được.Thế nên, hễ có dịp gặp anh em để bàn bạc sự đời, chúng ta thấy
tinh thần hoạt hiện. Các sinh hoạt thường niên tạo cho chúng ta môi
trường gặp gỡ, kết chặt thân tình, kết tinh chí hướng. “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ”. Được gặp bạn từ phương xa đến thăm, quả là
một niềm vui vì tình bằng hữu giá đáng muôn chung, người ở thế dẫu trăm
năm là mấy!
Với nghị lực tiềm tàng, chúng ta đương đầu với cuộc sống mới đầy gian
lao và thử thách. Hoàn cảnh mới đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu trường kỳ
cho, bản thân, gia đình và nòi giống.
Nhớ thuở ban đầu nơi xứ lạ quê người, sau biến cố lịch sử, có một không
hai của đời người, dù không lưu luyến, nhưng ngàn năm chưa dễ đã ai
quên. Có khi “Vui là vui gượng kia mà. Ai tri âm đó mặn mà với ai”. Có lẽ
phần vì chúng ta đã xem nhau như người khách lạ, phần khác vì mải mê
vật lộn với những nhu cầu cấp thiết của cuộc sống hằng ngày, nên thái độ ngoảnh mặt, cúi đầu, mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi đến là thái độ thường
tình của kẻ bất đắc chí.
Nếu thời gian là liều thuốc hàn gắn vết thương lòng, thì sau hơn nhiều năm trời viễn xứ, thời gian đã khơi động tình huynh đệ chi binh và tình đồng hương muôn thuở tiềm ẩn trong tâm khảm của mỗi người. Dù “Anh với tôi đôi người xa lạ. Tự phương trời chẳng hề quen nhau. Nhưng lúc nguy
biến, tình siết chặt tình. Đêm tối chung chăn, thành đôi tri kỷ” và mỗi khi đã trở thành tri kỷ thì:
“Gặp một bữa, mình mừng thầm một bữa
Gặp hai hôm, thành nhị hỉ của tâm hồn”
Diễn trình kết nghĩa là diễn trình tri và mộ. Khi chưa quen biết thì gặp gỡ,tìm hiểu nhau để thông cảm. Khi quen biết nhau rồi thì không còn tìm hiểu nhau nữa mà hiểu nhau qua môi giới cảm thông, qua ánh mắt, nụ cười vì bằng hữu thân tình là người hiểu ta tất cả. Vâng, tất cả, nhưng vẫn thích ta.
Tình huynh đệ chi binh, tình đồng hương, tri âm hay tri kỷ là cung bậc tiết tấu cảm thông toàn vẹn nhất của nhân tình. Ngày xa xưa ấy, Bá Nha và Chung Tử Kỳ là đôi bạn tri âm. Bá Nha có ngón đàn tuyệt diệu, khi cao
thì vời vợi tựa núi Thái sơn, khi trầm thì âm hưởng như tiếng suối mới sa
giữa vời.
Chung Tử Kỳ chết, không còn ai hiểu nổi tiếng đàn, Bá Nha ném
đàn không gảy nữa!
“Đàn Bá Nha mấy kẻ biết thưởng âm
Mới nghe qua khóc trộm lại đau thầm
Chung Kỳ chết, ném đàn không gãi nữa”.
Tình huynh đệ chi binh là kho tàng vô giá, là nền tảng và hơi thở của các
tập thể quân nhân, là nguồn an ủi vô biên, ai xa lánh tình huynh đệ tâm
hồn sẽ chết trong giá lạnh !
Khi sống hạnh phúc, trong ấm ngoài êm, ai cũng có thể là bè bạn. Nhưng
khi gặp lúc gian nguy, khốn khó đem cay đắng đến cho đời, thì còn ai lao
mình vào lửa đạn để cứu mình, còn ai thương tiếc mình, còn ai để chia vui
sẻ buồn, tìm phương thoát hiểm, nếu không phải là tri kỷ.
Một Lưu Bình và Dương Lễ, ai nhờ ai nên danh phận ?
Một Lê Lai liều mình cứu chúa, chẳng những để đền ơn tri ngộ, giữ nghĩa
quân thần mà còn là biểu tượng hy sinh cao cả của tình bằng hữu. Thế
mới biết lúc gặp hoạn nạn, mới biết ai là bạn thật !
“Xung phong chiếm một đầu cầu
Niềm vui “chung” hưởng, chén sầu “chung” mang”
Dương Khuê chết đi, cụ Nguyễn Khuyến khóc suốt cuộc đời còn lại!
“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Chợt nhớ thuở đăng khoa ngày trước
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau”!
Bây giờ, thư phòng trở nên băng giá, can trường bỗng chịu vết thương đau
vì không còn ai để đối ẩm.
“Đã tắt lò hương lạnh phím đàn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải vương theo mấy dặm sầu”
và
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa” !
Đồng cảnh ngộ, Vua Tự Đức khóc Bằng Phi, một thiên giai nhân tri kỷ.
“Ới thị Bằng Phi đã mất rồi
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi
Mưa hè, nắng chái, oanh ăn nói
Sớm ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Mối tình muốn dứt càng thêm bận
Lẽo đẽo theo hoài mãi chẳng thôi”
Xem thế thì tri kỷ quý hoá biết dường nào !
Thời gian vô bờ, đời người không bến, trôi dài với nhau. Thời gian càng
chồng chất, nỗi lòng càng thêm tê tái, tràn ngập nỗi cô đơn và niềm đau xa tri kỷ khi phải lìa bỏ quê hương dấn thân trên bước đường vô định.
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
và nỗi nhớ nhung luôn canh cánh bên lòng
“Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa lắm nhớ ta không ?”
Đề rối đồng cảm với tâm tư của Thôi Hạo:
“Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Ngẫm Trời, Đất mông lung,
Một mình tuôn giọt lệ !”
Không cần phải
“Gọi nằm người thiên cổ dậy”
Lại đưa hồn trong lúc ngủ canh đi’
để chứng giám cơn đau vời vợi ấy, mà chính chúng ta, trong tâm khảm
của mỗi người, cảm nghiệm được niềm bất hạnh của cuộc đời với cuộc
chia ly bẽ bàng và oan nghiệt. Bạn khuyên ta nên uống cạn chén bồ đào vì
khi qua bên kia phương trời Tây, không còn cố nhân nữa !
“Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu.
Tây xuất Dương quan vô cố nhân”.
Chúng ta cảm nghiệm được tâm tình kẻ tha thương đâu đâu cũng cô độc,
“L’exilé partout est seul”!
“Mưa mai thấm bụi Vị Thành
Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời
Khuyên anh hãy cạn chén mời
Dương quan ra khỏi ai người cố tri”
(Tống Nguyên nhị sứ An Tây)
Trong hoàn cảnh vỡ đàn tan nghé đó, mình vẫn còn lưõng l ự
“Đã chắc rằng biên thuỳ một cõi hiên ngang
Ai xui được anh hùng cởi giáp ? “
Thế nhưng vì vận nước đa đoan đành phải thúc thủ lui binh
“ Nực cười thay lúc phân kỳ
Tuy chẳng nói biết bao nhiêu biệt lệ ! “
Trong hoàn cảnh đó, mỗi người mò mẫm đi tìm sinh lộ như lữ hành trong
sa mạc đi tìm suối nước.
“ Than ôi, một kiếp phong trần, mấy phen chìm nổi
Trời tình mờ mịt, bể hận mênh mông
Sợi tơ mành theo gió cuốn đi
Cánh hoa rụng, chọn gì đất sạch”.
Có lẽ con Tạo khéo trêu ngươi, bắt người khôn phải gặp gian truân,
những chiến binh một thời oanh liệt, đã từng đã trải qua biết bao nhiêu
hiểm cảnh “Tên reo đầu ngựa, giáo loan mặt thành”
“Trong lăng miếu ra tài lương đống,
Ngoài biên thùy rạch mũi Can tương”.
và cũng có lẽ con Tạo muốn thử thách chúng ta
“Có gió cả mới hay cây cứng
Không đường dài, nào biết ngựa hay”.
Trong cái thử thách đó, mình thử nghĩ:
“Ngẫm thay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
Đã là nam nhi thì mấy ai có thể rời khỏi đoạn đường chiến binh gian khổ .
Hơn ba triệu dân, quân, cán, chính tuấn kiệt của VNCH đã hy sinh tánh
mạng trong trận chiến chống CS xâm lăng.
Trong đó biết bao chiến sĩ đã sống hiên ngang và hy sinh cho tổ quốc một
cách oanh liệt!
“Sống bên tình, hy sinh bên bạn
Chết vì tổ quốc, chết vinh quang”.
Những người sống sót như chúng ta, để đổi lấy tự do, chúng ta cũng phải
chia phần mất mát.
“Trời đâu thiên vị người nào
Chữ tài, chữ mệnh dồi dào cả hai”
Nên, không phải vì thế mà chúng ta quy ẩn hay sinh ra chán chường
không phải lẽ.
Dù “Hận nước chưa trả xong đầu đã bạc, nhưng gươm mài bóng nguyệt
đã bao ngày”, bởi hy vọng là mạch sống của cuộc đời.
“Trời đâu riêng khó cho ta mãi
Vinh nhục dù ai cũng một lần”
Đức Khổng Tử khuyên thế nhân khi vui thì hãy vui nhưng đừng kiêu căng,
tự phụ và khi tai họa đến thì nên lo nghĩ mà chớ buồn phiền để “Mưu sinh
thoát hiểm”. Thế thì suy nghĩ là giềng mối cho mọi sự vì tư tưởng lên
khuôn cho hành động.
Chúng ta đang tìm nhau để kết nghĩa huynh đệ thân tình, kết tinh chí
hướng hầu giúp đỡ nhau trên bước đường gian truân lưu lạc
Người đồng môn, đồng hương, đồng màu cờ, sắc áo, phải giúp người
đồng hội, đồng thuyền để cùng nhau thăng tiến. Nếu nguyên tắc này được
xem như chỉ tiêu sinh hoạt trong đời sống hằng ngày, thì sá gì gian lao thử thách !
Chúng ta sẽ san bằng mọi trở ngại để cùng nhau xây đắp nền tảng cho tập
thể đồng hương, Dân, Quân, Cán, Chính đoàn kết và phồn thịnh. Mỗi
người ý thức trách nhiệm của mình, tự nguyện gánh vác việc chung, phát
huy khả năng cá nhân, đóng góp vào sự kiến tạo một tập thể con Hồng,
cháu Lạc, hùng mạnh cho hiện tại và tương lai.
Về tình cảm, dù có lúc cô đơn, nhưng như cụ Phan Sào Nam cũng đã
khuyên chúng ta:
“Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ thùy nhân bất thức quân”.
Đừng buồn vì trên đường đời chưa gặp được tri kỷ, trong thiên hạ hẳn
có người biết đến bạn.
Biết đâu nhiều chiến hữu, đồng hương, đang trông chờ gặp được huynh,
đệ, trong các đại hội thường niên, nghe lại những khúc hát ân tình nặng
lòng với quê hương hay tiếng quân hành còn như văng vẳng bên tai. Với
lòng tin tưởng không nao núng thì đường đời không còn khó vì ngăn sông
cách núi.
“Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực
đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc
lập. Cùng Hán Đường, Tống Nguyên, mỗi thời hùng cứ một phương. Dẫu
cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt thời nào cũng có. Vậy nên,
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết
ngay Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem sử sách đã có minh trưng”.
Những trang sử oai hùng đó còn như văng vẳng bên tai và sống mãi trong
tâm khảm của mỗi người, không những trong khung cảnh quê hương gấm
vóc:
“Đây, Bắc Việt với núi nùng, sông Nhị, cả một vùng cây cỏ thanh u. Trung
Việt với miếu môn lăng tẩm, chốn đế đô nghiêm mật mơ màng và Nam
Việt với đồng ruộng phì nhiêu, nguồn lợi dồi dào của dân tộc Việt”, mà
ngày nay còn phảng phất khắp năm châu, bốn bể, vì đâu đâu cũng in hình
dấu vết của con cháu Lạc Hồng.
Tập thể dân, quân, cán, chính chúng ta đang nỗ lực san bằng mọi trở ngại,
tham gia sinh hoạt trong mọi ngành hoạt động của người Việt quốc gia hải
ngoại. Chúng ta tận dụng và phối hợp khả năng cơ hữu, sở trường riêng
tư của mỗi công dân VNCH trong các lĩnh vực: Văn hoá, xã hội, kinh tế,
chính trị, quân sự, ngoại giao… để viết thêm trang sử oai hùng, làm rạng
danh nòi giống Tiên Rồng hầu lưu truyền cho hậu thế.
Sau một chu kỳ, mọi sự phải được tái bắt đầu “Thua keo này bày keo
khác” cũng như Triết gia Platon đã nói “Hãy bắt đầu, vì đó là ngưỡng cửa
quan trọng nhất của sự thành công”. Chúng ta quyết chung lưng đấu cật,
dấn bước phong trần trên đoạn đường thiên lý giải thoát quê hương
ra khỏi nơi đắm đuối.
“Phong trần mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo túi cơm sá gì ”
Thương nhau như tri kỷ trong tình huynh đệ chi binh và tình đồng hương
muôn thuở, kết chặt thân tình, kết tinh chí hướng, hầu có thể hoàn thành
sứ mệnh cố hữu mà tổ quốc đã giao phó.
Phục vụ tập thể Dân, Quân, Cán, Chính VNCH trong hoàn cảnh tha hương
thì cũng như phục vụ chính quê hương chúng ta trong tinh thần: “Tổ Quốc
– Danh Dự – Trách Nhiệm”, nhằm bảo vệ Chính Nghĩa Quốc Gia, chờ
ngày tái chiếm quê hương để tái lập tự do, dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ
cho quê hương vì:
“Quê ta chốn ấy giờ tang thương lắm
Mảnh đất ưu phiên hai chữ nắng mưa”
Trần Xuân Thời
Tổng Hội CSVSQ Trừ Bị QLVNCH.
thuducmn@gmail.com
Feb. 04, 2024
----------o0o-----------